Chia sẻ

Bài viết của bà Đỗ Thị Thanh Bình tham gia diễn đàn Đạo Phật Thiền tông đặc biệt 15/09/2019

Ngày đăng: 06-10-2019

Phật giáo là một tôn giáo tiêu biểu nhất, là tinh hoa trí tuệ của nhân loại


DIỄN ĐÀN ĐẠO PHẬT THIỀN TÔNG
 
CHỦ ĐỀ
 
PHẬT GIÁO LÀ MỘT TÔN GIÁO TIÊU BIỂU 
NHẤT, LÀ TINH HOA TRÍ TUỆ 
CỦA NHÂN LOẠI
 
Kính thưa: Thiền gia, Soạn giả Nguyễn Nhân, Trưởng ban Quản trị chùa Thiền tông Tân Diệu và các vị trong Ban quản trị.
 
Kính thưa: Quý vị Chủ tọa và các Quý vị trong đoàn Chủ tọa Diễn Đàn Đạo Phật Thiền tông.
       
Kính thưa: Quý vị tham dự Diễn đàn hôm nay và các Quý vị độc giả gần xa. 
 
Hôm nay tại Diễn Đàn này, tôi xin trân trọng gửi đến các Quý vị cùng độc giả gần xa đôi nét về bức tranh toàn cảnh của Phật giáo thế giới; Các Quý vị sẽ thấy được phần nào những đóng góp quan trọng của Phật giáo đối với xã hội loài Người và được nghe thế giới, nghe các Tôn giáo bạn nói về Phật giáo với đặc điểm nổi bật đó là một Tôn giáo tiêu biểu nhất, là Tinh hoa Trí tuệ của Nhân loại. Trên cơ sở nhận thức đúng về những giá trị đích thực của Phật giáo, mỗi chúng ta tự ý thức cho mình phải làm gì để xứng đáng với sự suy tôn của các quốc gia trên thế giới và các Tôn giáo bạn; Để Tinh hoa của đạo Phật mãi tỏa sáng và trường tồn trên thế gian này. 
Trước hết tôi xin trình bày:
 
PHẦN THỨ NHẤT:
 
VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH 
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
 
Kính thưa các Quý vị!
Cách đây, trên 2.500 năm Đức Phật đã dạy: 
Trên trái đất này bắt buộc phải có Đạo để thỏa mãn cái Tưởng, Ham muốn và Sợ của con người; Nếu không có Đạo thì con người không thể nào sống nổi với cái Tưởng của tánh Người. Vì vậy, ở trái đất này phải có Đạo để loài Người đem cái Tưởng, Ham muốn và Sợ của mình vào vùng huyễn mộng này an trú để lòng người được an. 
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về đời sống tinh thần và tâm linh của con người cũng xuất phát từ đó mà hình thành và phát triển theo sự mong muốn của con người.
Khởi đầu là sự ra đời của đạo Thần, kế tiếp là đạo Giác Ngộ - Giải Thoát và đạo Thánh.
Qua suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội loài Người, các Tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng cũng trải qua biết bao thăng trầm của thời cuộc. Tùy Phong tục, Tập quán, Tín ngưỡng, Tôn giáo, Bản sắc văn hóa riêng và sự phát triển không ngừng của xã hội, sự giao thoa giữa các nền văn hóa và Tín ngưỡng, Tôn giáo nên đã có nhiều Tôn giáo được ra đời và hoạt động theo những tôn chỉ, mục đích riêng. Hiện nay trên toàn thế giới có hàng ngàn Tôn giáo khác nhau. 
Từ thế kỷ thứ sáu TCN, khởi nguồn từ Thái Tử Tất Đạt Đa con của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Da, trị vì Vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Hiện nay thuộc Miền Bắc Ấn Độ). Thái Tử Tất Đạt Đa chính là người sau này đã đi tu chỉ cốt tìm cho ra được câu trả lời về 4 thắc mắc bấy lâu nay của Ngài mà cả Vương quốc Ca Tỳ La Vệ này không có người nào giải đáp thỏa mãn được cho Ngài đó là: 
1/ Con người từ đâu đến với thế giới này?
2/ Đến thế giới này rồi để bị: Sanh - Già - Bệnh - Chết?
3/ Khi còn sống ở thế giới này tranh giành hơn thua, chém giết với nhau, sau cùng rồi cũng phải lìa bỏ tất cả sao?
4/ Chết rồi sẽ đi về đâu? 
 
 Ngài đã dụng công tu nhiều pháp môn khác nhau như: 
 
1- Tu khổ hạnh; 2- Tu Tiên;
3- Tu các pháp môn Thiền Quán và đều có thành tựu. 
Tuy nhiên, vẫn chưa giải đáp rõ thông được 4 thắc mắc trên của Ngài. Sau cùng, Ngài đến ngồi dưới gốc cây Bồ đề thanh vắng gần bên dòng sông Hằng, Ngài để tâm tự nhiên thanh tịnh. Bất ngờ thiên nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, Phật nhãn của Ngài mở ra và sáu cái thông suốt gồm:
 
1- Nhục nhãn: Con mắt người của Ngài.
Thấy và biết như là các người Phàm phu.
 
2- Thiên nhãn: Ngài nhìn thấy và biết được khắp trong 1 Tam giới có 45 hành tinh có sự sống.
 
3- Huệ nhãn: Ngài nhìn thấy và biết được Cõi Vô hình.
Thấy và biết thật rõ ràng các loài mang thân Điện từ Âm - Dương.
 
4- Pháp nhãn: Ngài nhìn thấy và biết được sinh diệt khắp trong 1 Tam giới dù nhỏ như vi trần (1 Nguyên tử.)
 
5- Phật nhãn: Ngài nhìn thấy và biết được khắp trong Càn khôn vũ trụ có 2 phần: “Một là Phật giới, hai làm Tam giới".
 
  Kính thưa các Quý vị:
Ở thế giới này, duy nhất chỉ có đạo Phật mới trình bày ra sự thật và rõ ràng những gì có nơi Thế giới này có, gồm:
1- Con người; 2- Vạn vật; 3- Trái đất; 4-Tam giới; 5- Phật giới; 6- Càn khôn vũ trụ; 7 - Nhân quả luân hồi…
* Tất cả 7 phần nói trên, Đức Phật trình bày một cách rất thực tế, rõ ràng và khoa học.
 
Kính thưa các Quý vị!
Đức Phật là người tu “Như Lai Thanh tịnh Thiền”, chứng được:
1- Tam minh;
2- Lục thông;
3- Tứ vô sở úy 
4- Thập bát bất động.
Vì vậy, Đức Phật có nói:
- Ta là người Toàn năng toàn giác;
- Ta là người chứng được Chánh đẳng Chánh giác;
- Ta hiệu là “Thích Ca Mâu Ni”.
 
Kính thưa các Quý vị:
❀ Công lập ra đạo Phật, 10 vị có danh nêu sau đây có công rất lớn:
1- Thần Kim Cang;
2- Ông Kiều Trần Như;
3- Ông Kiều Trần Nhi;
4- Ông Kiều Trần Thi;
5- Ông Kiều Trần Nga;
6- Ông Kiều Trần Na;
7- Ông Thực Lực;
8- Ông Ác Bệ;
9- Ông Mã Thắng;
10- Ông Ma Nam.
Nhờ có sự trợ giúp của Thần Kim Cang và 5 anh em Kiều Trần Như cùng 4 người bạn đồng tu như nêu trên, Đức Phật thành lập ra “Giáo Đoàn Đạo Giác Ngộ - Giải thoát”. 
❀ Pháp môn tu đầu tiên là bài pháp “Bụi Trần”, Đức Phật phân tích Bụi Trần này như sau:
1- Không gian thanh tịnh ví như tánh Phật.
2- Bụi Trần ví như tánh Người.
 
Đức Phật dạy tiếp về Giác Ngộ - Giải Thoát:
Đạo của Như Lai dạy 2 phần chánh như sau:
1- Giác ngộ: Tức hiểu tất cả từ: Con người, vạn vật, trái đất, tam giới, Phật giới, Càn khôn vũ trụ, quy luật Nhân quả luân hồi, v.v…
2- Giải thoát: Tức hiểu công thức trở về Phật giới, gọi là Giải thoát.
 
Kính thưa các Quý vị!
Giáo đoàn “Đạo Giác ngộ - Giải thoát” thành lập xong. Nhưng Pháp môn Giác ngộ - Giải thoát không thể dạy được, mà phải chờ đến khi khoa học phát triển đến trình độ cao, loài người hiểu được thực tế và có khoa học chứng minh, thì pháp môn Thiền tông học này mới được công bố và phổ biến ra.
Vì vậy, Đức Phật phải dạy 5 pháp môn tu hành trong vật lý để Đạo của Đức Phật hình thành và lưu hành được. 
 
❀ Pháp môn thứ 1: gọi là pháp môn dụng công tu thiền cũng gọi là pháp môn nguyên thủy.
- Đức Phật dạy ngồi Thiền có 37 pháp Quán, Tưởng và cầu mong… mỗi pháp đều có thành tựu theo quy luật Nhân quả luân hồi nơi trái đất do sức hút của điện từ Âm Dương, thành tựu cao nhất là Thánh A La Hán, cũng gọi là Thánh Bất Động. Pháp môn Nguyên thủy này, Đức Phật dạy suốt 15 năm.
 Pháp môn thứ 2:
- Khi pháp môn Nguyên thủy Đức Phật dạy xong, Ngài đem pháp môn Nguyên thủy này ra phân tích cho các Môn đồ của Ngài hỏi tự do về pháp môn này suốt 15 năm.
- Khi giải thích pháp môn Nguyên thủy, có rất nhiều Môn đồ của Đức Phật trình hỏi:
- Kính bạch Đức Thế Tôn, ở thế giới này khổ quá, chúng con tu pháp môn nào, sau khi chết được lên các cõi Trời sống để hưởng vui sướng, kính xin Đức Thế Tôn dạy chúng con?
 
Đức Phật dạy:
- Này các Tỳ kheo và Đại chúng, ở thế giới này gọi là thế giới Luân hồi nên sanh ra Nhân quả, bất cứ người muốn sau khi chết vãng sanh lên các cõi Trời, nước Cực Lạc hay ở trái đất làm người giàu sang, thì phải học công thức của Quy luật Nhân quả luân hồi nơi trái đất này, có 12 con đường, gồm:
 
Một: Môn đồ nào muốn sau khi chết vãng sanh lên các cõi Trời Vô sắc sống hưởng nghiệp phước Dương thanh tịnh, thì dụng công tu hành Thiền như sau:
1- Dụng công ngồi Thiền ép cho tánh Người của mình thanh tịnh, bất động, không phát sanh ra một niệm nào, dù là nhỏ nhất.
2- Phải luôn khởi ra ham muốn sau khi chết được vãng sanh lên cõi trời Vô Sắc sinh ra và sống ở đây.
3-  Khi xả Thiền ra, phải làm phước thiện cho thật nhiều, nhưng tánh Người của mình lúc nào cũng thanh tịnh, để tạo lực hút Dương lên các cõi trời Vô Sắc sống. 
4- Tuổi thọ ở cõi trời Vô Sắc này, nếu người tu có phước đức Dương vô lượng, thì sống ở cõi trời Vô Sắc đúng 100 ngàn năm so với địa cầu này. Nếu phước đức Dương chỉ có 40%, hay 60%, hoặc 80%, thì tuổi thọ chỉ cũng ngần ấy thôi, rồi quay trở lại địa cầu này, vào Dòng tộc, tái sanh làm Người, tạo nghiệp khác, đi luân hồi nữa theo Nhân quả của mình tạo ra.
5- Cõi trời Vô Sắc này, nằm ở Bầu Hoàn đạo 4 của Tam giới, tức sát với Bầu Bảo vệ Tam giới. 
 
Hai: Môn đồ nào muốn sau khi chết vãng sanh lên các cõi Trời Hữu sắc sống hưởng nghiệp phước Dương thanh tịnh, thì khi: đi, đứng, nằm, ngồi, v.v… lúc nào cũng ham muốn sau khi chết, vãng sanh lên các cõi trời Hữu Sắc sinh ra và sống ở đây để hưởng cảnh sung sướng vui tươi trong ánh điện từ Âm Dương 12 màu sắc, rực rỡ, lung linh, vui tươi, thì phải thực hiện 2 phần như sau: 
1- Tánh Người của mình lúc nào cũng nhớ cảnh trời Hữu Sắc là rất đẹp!
2- Thân Người của mình lúc nào cũng thích sống nơi cõi trời Hữu Sắc này!
 
 Người tu phải thực hiện 2 phần như sau:
1- Phải làm phước thiện được vô lượng: Thì sau khi chết chắc chắn 100%, được vãng sanh lên cõi trời Hữu Sắc. Tuổi thọ của cõi trời hữu sắc là 10 ngàn năm so với địa cầu này. Nếu phước thiện chỉ có 40%, hay 60%, hoặc 80%, thì tuổi thọ cũng ngần ấy thôi, rồi quay trở lại địa cầu, vào Dòng tộc, tái sanh làm Người, tạo nghiệp khác, đi luân hồi nữa theo Nhân quả của mình tạo ra.
2- Cõi trời Hữu Sắc này, nằm ở Bầu Hoàn đạo 3 của Tam giới.
 
Ba: Môn đồ nào muốn sau khi chết vãng sanh lên nước Cực Lạc sống hưởng nghiệp phước Dương thanh tịnh, thì khi: đi, đứng, nằm, ngồi, v.v… miệng lúc nào cũng niệm: (Nam Mô A Di Đà Phật)
* Niệm khi nào được vị Thần quản lý tánh Phật của mình, hoặc vị Cô Hồn sử dụng Thần thông đem hình bóng của Đức Phật đến cho mình thấy là thành công!
* Các Môn đồ nên biết:
- Muốn vãng sanh lên nước Cực Lạc sinh ra và sống ở đây, thì phải tạo nghiệp phước đức Dương được vô lượng, thì mới đủ lực vãng sanh được.
 Đặc biệt trong 1 Tam giới, duy nhất chỉ có nước Cực Lạc có học công thức Giải thoát. Vì vậy, Môn đồ nào khi sống ở nước Cực Lạc mà hết tuổi thọ, trước khi trở lại thế giới loài Người, được Đức Phật A Di Đà dẫn ra ao sen kiểm Thiền, Môn đồ nào đã kiến bằng tánh Phật thanh tịnh của chính mình, thì Môn đồ này được Đức Phật A Di Đà xác nhận bằng câu: “Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh”.
Môn đồ này được Đức Phật A Di Đà giữ ở nước Cực Lạc, đợi khi nào ở trái đất, pháp môn Giải thoát  chuẩn bị công bố ra, thì  Đức Phật A Di Đà dẫn trở lại loài Người, đến gần nơi công bố pháp môn Giải thoát, người này vừa nghe danh từ Giải thoát, tự tìm đến học công thức Giải thoát để trở về Phật giới.
 
Bốn: Môn đồ nào muốn sau khi chết, vãng sanh lên các cõi trời Dục Giới sống hưởng nghiệp phước Dương thật mạnh, như:
1- Vãng sanh vào cõi trời Tứ Thiên Vương để điều hành Tam giới.
2- Vãng sanh vào cõi trời Thượng Đế để sống trong khuôn phép lễ nghi, trang nghiêm và chuẩn mực nhất nơi Tam giới này.
3- Vãng sanh vào cõi trời Dục Giới sống có cảm giác thật mạnh nhất nơi Tam giới này.
 
Năm: Môn đồ nào muốn khi còn sống mà thích làm Thần Y trị bệnh, thì dụng công Niệm Thần chú để phát ra hiển linh để:
- Sai khiến Cô Hồn, chỉ thân người bị bệnh là bệnh gì?
- Khi đã biết bệnh rồi, thì vị Thầy thuốc này trị bệnh rất nhanh hết.
- Tất cả các vị Thần y, sau khi chết được làm Thần thừa hành.
 
Sáu: Môn đồ nào muốn tái sanh làm Người Giàu sang, thì phải bố thí cho thật nhiều và ham muốn tái sanh lại làm Người Giàu sang.
 
Kính thưa các Quý vị:
- Khi Đức Phật đã dạy cho các Môn đồ đầy đủ các pháp môn nói trên, các Môn đồ của Đức Phật đem về phương nam của nước Ấn Độ truyền bá. Vì vậy, hiện nay các quốc gia tu theo đạo Phật là tu theo pháp môn này, như các nước:
1- Tích Lan; 2-Malaysia; 3-Indonesia; 4- Miến Điện; 5-Thái Lan; 6-Lào; 7- Campuchia; 8- Miền Nam Việt Nam.
* Còn pháp môn Đại thừa, cũng gọi là pháp môn Phát triển, được các vị Thầy mang sang miền Bắc nước Ấn Độ truyền bá vào các nước như:1- Népal; 2- Tây Tạng;  3- Bhutan; 4- Trung Quốc; 5-Nhật Bản; 6-Hàn Quốc; 7- Triều Tiên; 8- Miền Bắc Việt Nam;  V.v…
 5 pháp môn dụng công tu hành nêu trên, Đức Phật dạy trong suốt 45 năm. Bốn năm sau cùng trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật dạy pháp môn thứ 6 là Đạo Phật Thiền tông. Pháp môn này chuyên dạy 2 phần gồm:
1- Giác ngộ;  2- Giải thoát.
 Pháp môn Giác ngộ - Giải thoát này không dạy cho loài Người sống thời kỳ “Đồ Đồng”. Vì vậy, Đức Phật phải bí mật truyền theo dòng Thiền tông. Đợi đến khi con người bước vào thời kỳ “Văn Minh Nguyên tử và Điện tử” biết sự thật từ:
- Con người; Vạn vật; Trái đất; Tam giới; Phật giới; Càn khôn vũ trụ; Quy luật Nhân quả luân hồi v.v…Thì mới công bố ra để ai muốn giải thoát khỏi sinh tử luân hồi thì tu.
 Sau cùng, Đức Phật dạy công thức Giải thoát, tức trở về Phật giới.
 
Kính thưa Quý vị:
Đức Phật là một vị Toàn Năng, Toàn Giác nên Ngài giải thích thật rõ ràng, thực tế và khoa học tất cả mọi thứ từ cái lớn nhất đến cái nhỏ nhất, từ con người đến vạn vật như: Càn khôn vũ trụ; Phật giới; Tam giới; Trái đất; Vạn vật; Các loài sống trên trái đất;  Các loài hữu hình; Các loài vô hình; Linh thiêng huyền bí;  Đạo do ai lập ra và để làm gì, v.v… 
 
Kính thưa Quý vị:
Giáo đoàn “Đạo Giác Ngộ - Giải Thoát” do Đức Phật Bổn Sư Thích Ca lập ra sau này được đổi tên là Phật giáo; là một trong số Tôn giáo có sớm nhất, từ thế kỷ thứ 6 TCN (chỉ sau Đạo Thần) và phát triển nhanh với qui mô lớn, rộng khắp.
Phật giáo xuất xứ lúc đầu chỉ có ở Ấn Độ nhưng đến nay Phật giáo đã có ở 118/204 Quốc Gia trên toàn Thế Giới.
Những Quốc Gia còn lại như Mỹ, Úc, các nước Châu Âu, v.v... cũng có nhiều ngôi chùa và hàng ngàn “Trung Tâm Phật giáo” của mọi truyền thống trên tất cả các Châu Lục được xây dựng lên để giúp các cộng đồng di dân duy trì bản sắc văn hóa và đời sống tinh thần - tâm linh.
Phật giáo cũng là một tôn giáo có cơ sở thờ tự lớn, có số lượng chức sắc, tăng – ni tu hành cao và số tín đồ phật tử lớn đứng thứ 5 trong tốp 10 tôn giáo có số lượng tín đồ lớn nhất thế giới như: Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Miến Điện, Việt Nam, Bhutan, Tích Lan (Srilanka), Tây Tạng (Tibet), Lào. Bên cạnh 118 Quốc Gia có Phật giáo thì các quốc gia còn lại tuy số lượng người tu hành và tín đồ Phật tử có nhiều ít khác nhau nhưng gần như có ở hầu hết các quốc gia trên thế giới quốc gia nào cũng có người tu theo Đạo Phật được hình thành từ người di cư đến.  
 
Kính thưa các Quý vị!
Phật giáo có những thời kỳ hoàng kim rực rỡ như ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 6 trước CN, ở Trung Hoa vào thời nhà Đường, ở Tích Lan vào thế kỷ 19, Bangladesh ở thế kỷ 11 v.v... Ở Việt Nam vào thời kỳ Đinh - Tiền Lê, đời nhà Trần và đời nhà Lý, Phật giáo chiếm vị trí độc tôn.  
Nhưng Phật giáo cũng có thời kỳ suy đồi như ở Ấn Độ vào thế kỷ 12, Phật giáo hoàn toàn biến mất, ngoại trừ miền viễn Bắc Hy Mã Lạp Sơn. Ở Tích Lan Phật giáo bị suy đồi từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 mới được phục hưng trở lại. Ở Trung Quốc vào thời kỳ Cách Mạng văn hóa thập kỷ 60- 70 đa số các chùa, Tu Viện Phật giáo đã bị phá hủy, hầu hết Chư Tăng Ni, Giảng Sư lão luyện bị hành quyết và giam cầm. Việc đàn áp Phật giáo còn dữ dội hơn ở Tây Tạng và nội Mông kéo dài suốt cho đến thời kỳ Trung Quốc thực hiện cải cách cởi mở thì Phật giáo mới được phục hưng trở lại. Nhiều quốc gia khác như Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia, Miến Điện, Bhutan, Tây Tạng, v.v... là những quốc gia có Phật giáo du nhập vào sớm, lưu truyền lâu và cũng trải qua thăng trầm như bao Quốc gia khác.
 
Kính thưa các Quý vị! 
- Suốt hơn 2.500 năm hình thành và phát triển, Phật giáo đã trải qua biết bao thăng trầm, thịnh suy và đầy biến cố. Để tồn tại và phát triển Phật giáo được truyền đến đâu thì giao thoa pha trộn với đạo gốc và nền văn hóa cùng với các tín ngưỡng tôn giáo của nước bản địa, đã tạo được sự lan tỏa nhanh, rộng khắp, có sức ảnh hưởng lớn, thu hút được nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khắp các Châu Lục trên toàn Thế Giới với đông đảo chức sắc, người tu hành và tín đồ Phật tử tham gia. Phật giáo có lúc thịnh, lúc suy;  nhưng vượt lên trên tất cả những khó khăn, thử thách của thời cuộc, Phật giáo vẫn không ngừng phát triển và trường tồn cho đến ngày nay. 
 
PHẦN THỨ HAI:
 
NHỮNG LỢI ÍCH MÀ PHẬT GIÁO Đà
ĐEM LẠI CHO THẾ GIỚI LOÀI NGƯỜI?
 
Kính thưa các Quý vị!
Từ khi Giáo Đoàn Đạo Giác Ngộ - Giải thoát do Đức Phật Bổn Sư Thích Ca thành lập đã mở ra cho loài người cái nhìn mới về nhân sinh quan và vũ trụ; đem lại những lợi ích thiết thực cho đời sống - xã hội của con người cũng như muôn loài, mang giá trị thời đại và thể hiện được tính nhân văn sâu sắc.
 
Thứ nhất: Tôi muốn đề cập đến đó là: Phật giáo là một tôn giáo có tầm trí tuệ cao, rộng, là tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
Cách đây trên 2.500 năm, khi xã hội loài người còn đang ở vào thời kỳ đồ đồng; nhưng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni với trí tuệ của một bậc toàn năng - toàn giác; Ngài đã thấy và biết rất rõ ràng và tường tận về vũ trụ, trái đất, thế giới hữu hình, vô hình…  
 
Chỉ có Phật giáo mới chỉ ra được:
1. Cấu trúc của càn khôn vũ trụ;
2. Cấu trúc của một tam giới (tức hệ mặt trời); 
3. Cấu trúc Tổng thể của một con người và động vật;
4. Biết rõ vạn vật có trên trái đất này;
5. Biết cấu tạo của địa cầu;
6. Biết trên trái đất này, không vật gì thoát ra ngoài quy luật thành - trụ - hoại - diệt được;
7. Biết không vật gì đứng yên một chỗ, mà nó phải luân chuyển thì mới tồn tại được;
8. Biết động vật, thực vật sinh sản ra, phải qua công thức vật lý âm dương. Biết loài người là “Trung tâm luân hồi” đi trong Tam giới này;
9. Biết về sự hình thành của một Trung ấm thân, biết con người sau khi chết sẽ đi về đâu;
10. Biết về mười pháp giới.
 
 Đức Phật dạy: Ai tu theo Đạo Phật, không hiểu mười pháp giới, ngồi đó dụng công tu một nghìn năm hay nhiều hơn vạn lần đi chăng nữa cũng không giải thoát được. 
Những điều nêu trên, duy nhất chỉ Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni  thấy, biết được và Ngài đã chỉ dạy cho loài người về sự thật ấy; Phật giáo mới trở thành một Tôn giáo có tầm trí tuệ cao, rộng, là tinh hoa trí tuệ của nhân loại.
 
Thứ hai: Có nhiều nhà khoa học trên thế giới nhận định Phật giáo đi trước khoa học, là khoa học trên các khoa học.
Nhận định này là hoàn toàn đúng; bởi Phật giáo không mê tín. Mọi điều Đức Phật nói đều không trái với khoa học, không trái với thực tế đời sống và đã có từ cách đây trên 2.500 năm, nhưng sau nhiều thế kỷ, khoa học mới chứng minh được như:
- Có vũ trụ, trái đất, tam giới, có các hành tinh có sự sống và hành tinh vật tư, có lỗ đen vũ trụ, chứng minh được cấu trúc con người, động vật, thực vật và vạn vật trên trái đất này; chứng minh có nguyên tử, phân tử, phát hiện ra vi trùng; chiết xuất được ADN và tế bào gốc để sử dụng trong y học; chứng minh được quy luật vận hành của trái đất và sự cuốn hút của điện từ âm dương v.v…
Với những chứng minh trên của khoa học đã xóa đi quan niệm sai lầm cho rằng trái đất này hay con người và vạn vật, v.v… đều do “Thượng đế” hay “Đấng tạo hóa” sinh ra. Sự chứng minh của khoa học đã khẳng định rõ Phật giáo đi trước khoa học, là khoa học trên các khoa học và những lời dạy của Đức Phật là đúng sự thật, rất rõ ràng và cụ thể. Đây chính là khoa học; là bản chất đích thực chỉ có ở Phật giáo.
 
Thứ ba: Phật giáo nhìn ở góc độ xã hội đã giúp cho các quốc gia, dân tộc, tôn giáo và mọi người trong xã hội gắn bó lại với nhau hơn, cùng chăm lo cho nhau ngày càng tốt hơn. 
Phật giáo làm cho con người cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản trong cuộc sống, vơi đi nỗi khổ, niềm đau, bớt đi những bế tắc trong cuộc sống xã hội với bộn bề lo toan phức tạp, làm cân bằng cuộc sống của con người và xã hội, đem lại niềm vui - hạnh phúc cho con người và sự bình yên của xã hội. Với những việc làm của các Vị Tăng Ni như hoằng dương giáo pháp, dạy chữ, dạy nghề, chữa bệnh, tư vấn kiến thức về cuộc sống, v.v... cho tín đồ, Phật tử mỗi khi họ gặp chuyện khó khăn hay bất an trong cuộc sống, Phật giáo đã trở thành điểm tựa trong đời sống tinh thần và tâm linh của tín đồ Phật tử trên khắp thế giới. 
 
Thứ tư: Phật giáo đã chỉ cho con người biết ai sinh ra rồi cũng sẽ phải già, phải bệnh và cuối cùng là chết. Không ai có thể cưỡng lại qui luật tự nhiên này. Đồng thời, Phật giáo chỉ cho con người biết có được thân người là rất khó. 
Theo tuệ giác của Thế Tôn, được sanh làm người là điều hy hữu, còn khó hơn con rùa mù sau hàng 100 năm mới ngoi lên mặt biển mà lọt cổ vào lỗ hổng của khúc cây trôi lênh đênh trên đại dương hay từ xa bắn mũi tên xuyên qua đầu một sợi lông đã được chia nhỏ thành trăm phần vậy. Nhưng mất đi thân người lại rất dễ, chỉ trong hơi thở. 
Sự vô thường không hẹn trước bao giờ. Một sự thật phũ phàng của kiếp người và mong manh như hơi thở, nên chỉ cần mỗi con người họ tự nhận ra được một thoáng vô thường, phù du thôi cũng giảm được phần nào nỗi khổ đau do tham danh, đoạt lợi. Nhân loại sẽ bớt đi nỗi thương đau bởi những xung đột chiến tranh, nạn khủng bố, chém giết lẫn nhau, tranh giành thôn tín lãnh thổ, thị trường thương mại gây ảnh hưởng xấu và thiệt hại cho biết bao quốc gia, tổ chức và con người trên thế giới này.
Họ sẽ bình tâm nhìn lại chính mình nên là người sống có trí tuệ, là người thiện hay là người ác. Thực tế đã cho thấy cái gì là quyền lực tối thượng hay vàng bạc, châu báu mà ta đang có, không có gì chắc chắn cả chỉ trong hơi thở, ta và của ta chỉ còn lại bọt nước, là đốm lửa chợt còn, chợt mất mà thôi. Với tuệ giác của Đức Thế Tôn, thì thọ mạng con người chỉ ngắn bằng hơi thở. Phật dạy cho tín đồ Phật tử của mình khi có được thân người hãy trân Quý nó, biết sử dụng nó để đem lại niềm vui, hạnh phúc cho bản thân và cho muôn loài. Phật giáo khuyên con người đừng làm điều xấu ác..
Đức Phật đã thấy trước được điều này và Ngài chỉ ra rằng: “Con người đến với thế giới này khi còn sống thì tranh giành hơn thua, chém giết với nhau”, chính là vậy. Cuối cùng vô thường bất chợt đến mỗi chúng ta sẽ phải lìa bỏ tất cả, không mang được bất cứ thứ gì đi theo mình, ngoài cái Tổng nghiệp thiện hay ác mà ta đã tạo ra khi còn sống trên thế giới này.
 
Thứ năm: Phật giáo hướng tư tưởng, suy nghĩ và hành động của con người đến với giá trị của tự do.
Đây là cái quyền cao nhất của một con người trong xã hội.
 
Kính thưa các Quý vị!
Khi còn tại thế, Đức Phật đã từng nói với các chúng Tỳ Kheo - Ni: “Tôi nói ai muốn theo thì theo, ai muốn nghe thì nghe, nhưng những điều tôi nói thì các ông đừng vội tin nếu như các ông thấy rằng điều đó không thuận với thực tế hay làm ảnh hưởng xấu đến xã hội, còn việc gì các ông thấy cần làm thì cứ làm”. 
Đức Phật không bắt buộc mọi người phải theo, phải nghe, phải tin Đức Phật mà muốn mỗi người phải thực hành nếu thấy thuận với thực tế và mang lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng xã hội thì hãy tin, hãy làm theo. Đức Phật tôn trọng quyền tự do lựa chọn của mỗi người.
Ngày nay trên thế giới, Hội đồng nhân quyền trực thuộc ĐHĐ LHQ và tổ chức ECOSOC LHQ đã được thành lập để: “Thực hiện  mục tiêu khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”.
 
Thứ sáu: Phật giáo dạy cho con người luôn tôn trọng và bình đẳng với nhau.
Cách đây hơn 2.500 năm, khi xã hội Ấn Độ rất mất bình đẳng, mê tín và có sự phân tầng giai cấp rõ rệt.
Nhưng Đức Phật đã phá đi cái bất bình đẳng ấy bằng câu nói: con người khi máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn thì không phân biệt đẳng cấp. 
Đức Phật nói và chính Ngài đã thực hành chân lý đó: Đức Phật luôn coi mình ngang với mọi chúng sinh “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Đức Phật còn đặt Vị trí người tu hành ngang với Vị trí người cư sĩ tại gia với câu nói “tứ chúng đồng tu” ý nói hai chúng xuất gia là Tăng và Ni và hai chúng tại gia là Ưu Bà Tắc và Ưu Bà Di.
Phật giáo thừa nhận người nữ xuất gia trong thời kỳ cổ đại. 
Những lời dạy và việc làm của Đức Phật đã lan tỏa và thấm sâu nơi thế giới loài người. Điều minh chứng là từ năm 1945, LHQ chính thức được thành lập đã đề ra mục tiêu là thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc. Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực KT-VH-XH và nhân đạo, tôn trọng các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi con người, v.v… Hiến chương này của LHQ đã được 193/204 quốc gia trên thế giới phê chuẩn. Ở Việt Nam trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 cũng như trong Hiến pháp và nhiều đạo luật như luật Tôn giáo - Tín ngưỡng cùng nhiều văn bản pháp luật khác của Nhà Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã có những qui định rất cụ thể về vấn đề này.
 
Thứ bảy: Phật giáo dạy cho con người phải luôn có tấm lòng bác ái.
Với triết lý tư tưởng từ bi, Phật giáo không chỉ thương bản thân và gia đình mình mà vượt lên trên tất cả, Phật giáo còn thương hết thảy chúng sinh, từ con người đến muôn loài, thương cả kẻ thù của mình. Phật giáo tôn trọng mọi sự sống của chúng sinh nên thực hành ăn chay không sát sinh, không làm tổn thương đến chúng sinh. 
 
Thứ tám: Phật giáo định hướng tư tưởng, giáo dục Đạo đức, “Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín” và sống chánh tín. 
   
Kính thưa các Quý vị!
Nói đến Phật giáo là nói đến 4 đức tính rất ưu việt đó là: Đại Từ - Đại Bi - Đại Trí - Đại Dũng; đồng thời còn là nét đẹp của chân-thiện-mỹ. Đến với Phật giáo là đến với sự bình yên, sự tĩnh lặng sâu lắng, chân thật với những cảm giác thật nhẹ nhàng, thanh thoát như trút bỏ đi được mọi nỗi ưu phiền trong cuộc sống. Phật giáo hướng cho con người sống thực tế; Suy nghĩ và hành động đều trên nền tảng hiểu rõ về nhân quả, nên biết hướng đến những lợi ích thiết thực cho cộng đồng xã hội, trong đó có bản thân mình, luôn tự soi rọi để nhận ra bản ngã của chính mình, không tin vào những điều không thực tế như: 
- Có nhiều người hàng ngày hay cầu xin phước. 
- Đức Phật dạy: “ở trái đất này, ai cũng sống trong nghiệp quá khứ của mỗi người. Ai cũng mang nghiệp như nhau mà cầu xin ai chi cho mệt”.
- Nhiều nơi tổ chức cầu siêu cho người chết để được lên cõi trời ở. 
- Trong kinh pháp cú Đức Phật dạy: “Như Lai quăng cục đá xuống hồ, nếu các ông mang chuông mõ ra gõ, cầu, cục đá ấy bay lên được là các ông làm đúng. Còn các ông ngày đêm gõ, cầu mà cục đá không bay lên được là các ông đi lừa người để lấy tiền của những người khờ dại này”.
 
Thứ chín: Phật giáo hướng con người đến một xã hội thật sự công bằng, không có người bóc lột người.
Tại nước Xá Vệ, Đức Phật dạy Vua Ba Tư Nặc: “Những hành động thiện hay ác của chúng ta mãi theo chúng ta như bóng theo hình. Điều cần thiết mà chúng ta phải có đó là tình thương. Hãy xem thần dân như con ruột của mình, đừng áp bức họ; đừng làm gì Tổn hại họ, trái lại hãy bảo vệ họ như giữ gìn tay chân của mình. Hãy sống với Chánh Pháp và đi mãi trên con đường lành. Đừng nâng mình lên bằng cách đạp kẻ khác xuống. Hãy gần gũi và thương yêu những kẻ nghèo khổ”.
Lời dạy của Đức Phật luôn hướng con người đến sự công bằng, sống bình đẳng và thương yêu, che chở lẫn nhau, đã trở thành mục tiêu chính của Hiến chương LHQ, được hầu hết các quốc gia trên thế giới đồng tình, ủng hộ.
 
Thứ mười: Bốn mốc son quan trọng của lịch sử Phật giáo:
 
MỐC SON THỨ NHẤT
 
Phật giáo được Đại Hội đồng LHQ công nhận là một Tôn giáo tiêu biểu nhất.
 
Kính thưa các Quý vị!
Với những đóng góp quan trọng và sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống - xã hội của con người trên khắp toàn cầu, cùng với tinh hoa trong sáng, rực rỡ của Đạo Phật đã được khoa học và thực tế chứng minh; đã tạo sự lan tỏa sâu, rộng ở nhiều quốc gia và tôn giáo bạn trên thế giới. 
Trong tình hình thế giới hiện nay đang có những diễn biến, phức tạp, khó lường.
Sự tác động và những ảnh hưởng của tôn giáo đối với việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế đang là vấn đề đáng quan tâm của LHQ, một Tổ chức toàn cầu rộng rãi nhất với sự tham gia của hầu hết các quốc gia độc lập trên toàn thế giới (Việt Nam của chúng ta cũng đóng góp vai trò quan trọng trong Tổ chức này). Đối với Liên Hiệp Quốc, việc lựa chọn một Tôn giáo điển hình, phù hợp với xu hướng, phát triển của nhân loại tiến bộ là rất cần thiết. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc cơ quan đại diện rộng rãi của Liên Hiệp Quốc với 193 quốc gia thành viên trên 204 quốc gia trên toàn thế giới, tại khóa họp lần thứ 54 ngày 15/12/1.999, Đại Hội Đồng LHQ đã thông qua nghị quyết chọn Phật giáo là Tôn giáo điển hình vì giá trị Đạo đức, văn hóa và tư tưởng hòa bình, bất bạo động của Đức Phật Bổn sư thích ca.
Đây là một quyết định có ý nghĩa to lớn đưa Phật giáo lên Vị trí cao nhất trên hàng ngàn tôn giáo có trên thế giới; là mốc son chói lọi đánh dấu vai trò, sự phát triển và sứ mạng lịch sử quan trọng của Phật giáo. Không những thế quyết định này còn là thể hiện ý chí thống nhất của 193 quốc gia trên thế giới cùng chung một thông điệp mong muốn về một nền hòa bình bền vững và tự do - bình đẳng - từ bi - bác ái - bao dung - bất bạo động.
 
MỐC SON THỨ HAI
 
LHQ công nhận Đại Lễ Vesak của 
Phật giáo là Đại Lễ Vesak LHQ.
 
Kính thưa các Quý vị !
Từ xa xưa Đại Lễ Vesak đã được Tổ chức thường xuyên hàng năm tại các quốc gia Phật giáo theo truyền thống Nam truyền; Bắt đầu từ Srilanka sau truyền sang Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia v.v... Một số quốc gia theo truyền thống Bắc truyền như Trung Hoa, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản do sử dụng hệ thống lịch riêng nên cử hành đại lễ kỷ niệm: lễ Phật đản Sanh, ngày Đức Phật thành Đạo và ngày Đức Phật nhập Niết bàn vào ba ngày khác nhau trong năm. Từ Đại hội Phật giáo Thế Giới lần thứ sáu năm 1.961 đã thống nhất chọn ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm là ngày Đại Lễ Phật đản sinh cũng gọi là Đại Lễ Vesak. 
Theo tinh thần của hội nghị thượng đỉnh Phật giáo quốc tế, ngày 15/12/1.999, đại diện nước Srilanka đã đệ trình dự thảo và được LHQ thông qua nghị quyết công nhận đại lễ VeSak của Phật giáo là đại lễ Vesak LHQ. Đây là một lễ hội văn hóa và tôn giáo quốc tế của LHQ, là ngày thiêng liêng nhất của mọi tín đồ Phật tử trên toàn thế giới để kỷ niệm ngày đản sanh - ngày thành Đạo và ngày nhập diệt của Đức Phật được tổ chức hàng năm vào ngày trăng tròn trong tháng 5 Dương lich tại trụ sở và các trung tâm của LHQ trên thế giới từ năm 2000 trở đi. Tính đến nay đã Tổ chức được 19 lần, trong đó Việt Nam đăng cai Tổ chức ba lần: 2.008; 2.014; 2.019.
 
MỐC SON THỨ BA
 
Phật giáo được Hội Liên Minh Quốc Tế tiến bộ 
Tôn giáo và tâm linh (Icarus) vinh danh là 
Tôn giáo tốt nhất thế giới
 
Kính thưa các Quý vị!
Ở đời, mỗi khi nói đến một Đạo giáo nào đó, người ta thường có quan niệm: Đạo nào cũng hướng con người đến cái thiện, Đạo nào cũng tốt cả. 
Tuy nhiên trong số hàng nghìn tôn giáo có trên thế giới hiện nay, thì Hội Liên Minh Quốc Tế tiến bộ tôn giáo và tâm linh chỉ công nhận Phật giáo là tôn giáo tốt nhất.
Theo báo Phật giáo của GHPHVN ra ngày 14/6/2019 đưa tin từ năm 2009, Phật giáo đã được Hội Liên Minh Quốc Tế tiến bộ tôn giáo và tâm linh tại Genève, Thụy Sĩ trao tặng giải thưởng “Tôn Giáo tốt nhất thế giới”. Đây là vinh dự lớn của Phật giáo nói chung và của những người theo Đạo Phật nói riêng trên toàn thế giới; khẳng định giá trị cao Quý và tốt đẹp về những lời dạy của Đức Phật còn trường tồn mãi với thời gian. Điều đặc biệt là có rất nhiều thành viên trong hội đồng bầu cử là người của các tôn giáo khác đã chọn bầu cho Phật giáo.
Nhiều ý kiến của các tôn giáo bạn nói về Phật giáo với những ưu điểm nổi trội ở nhiều góc độ khác nhau như:
- Phật giáo yêu chuộng hòa bình từ học thuyết đến hành động.
- Phật giáo là tấm lòng từ bi, độ lượng muốn góp phần thiết thực làm vơi bớt đi nỗi khổ, niềm đau của chúng sanh theo lời Đức Phật dạy.
- Phật giáo luôn hướng đến sự hòa bình. Suốt mấy ngàn năm có mặt chưa từng có bất cứ cuộc chiến tranh nào xuất phát từ Phật giáo, cũng chưa từng xúi giục tín đồ Phật giáo nào tham gia những cuộc chiến tranh đẫm máu dù chánh nghĩa hay phi nghĩa; bởi theo Phật giáo dù với lí do gì thì chiến tranh vẫn là thảm họa và gây ra đau thương- mất mát không biết bao nhiêu cho chúng sanh vô tội.
- Phật giáo là kho tàng trí tuệ bạt ngàn, v.v... 
 
Kính thưa các Quý vị!
Điều này cho thấy những giá trị tốt đẹp của Phật giáo đã tác động và có sự ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng và đời sống của con người trong xã hội đương thời bởi từ chính những lợi ích thiết thực mà Phật giáo đã mang lại cho con người và xã hội đó là Hòa Bình - tự do - bình đẳng - từ bi trí tuệ - tình yêu thương nhân loại - sự cảm thông, chia sẻ trách nhiệm cộng đồng, đoàn kết cùng nhau hành động để hiện thực hóa những mục tiêu phát triển bền vững của Phật giáo trong ngôi nhà chung của Liên Hiệp Quốc.
Với những đóng góp nêu trên Phật giáo đã được vinh danh là một tôn giáo tốt nhất trên thế giới.
 
MỐC SON THỨ 4
 
Pháp môn thứ 6, Đức Phật dạy về Giác ngộ - Giải thoát đã chính thức được chùa Thiền tông Tân Diệu Long An của nước Việt Nam công bố.
 
Ngày 14/05/2017, được sự cho phép của chính quyền ba cấp và của GHPGVN các cấp tỉnh Long An, chùa Thiền tông Tân Diệu Long An của nước Việt Nam đã tổ chức lễ công bố chính thức quyển Huyền Ký của Đức Phật dạy pháp môn thứ 6, là pháp môn Thiền tông được 36 Vị Tổ sư Thiền tông Bí mật truyền theo mạch nguồn Thiền tông. Đây là pháp môn tối thượng - tối tôn – tối mật; là pháp giáo ngoại biệt truyền; chỉ có pháp môn Thiền tông mới nói lên cốt lõi và Tinh hoa của Đạo Phật dạy Giác ngộ - Giải thoát để trở về Phật giới”, tức thành Phật.
 
(VIDEO CLIP 1): Công bố Huyền Ký
 
 Chính từ ngôi chùa Thiền tông Tân Diệu này, pháp môn thứ 6 là Đạo Phật Thiền tông đã được phổ biến đi khắp 5 Châu.
❀ Đến nay, đã có gần 10.000 người Việt Nam trong, ngoài nước và một số người trên thế giới tu theo pháp môn Đạo Phật Thiền tông học này. 
 Trong tương lai gần, pháp môn Đạo Phật Thiền tông học này sẽ có nhiều nhà vật lý học, nhà khoa học, người trí thức cao và người biết chân thật nơi trái đất này và thế giới vô hình, hữu hình, v.v…chấp nhận tu theo pháp môn này.
 
PHẦN THỨ BA:
 
ĐÂU LÀ CỐT LÕI, LÀ TINH HOA 
CỦA ĐẠO PHẬT?
 
Kính thưa các Quý vị!
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đến với Thế giới này do một đại nhân duyên muốn khai thị chúng sanh Ngộ - Nhập – Phật – Tri – Kiến, đem lợi ích đến cho Nhân - Thiên và cả muôn loài. 
Ngài đã tìm được câu trả lời trọn vẹn về bốn thắc mắc của Ngài và đặc biệt nhất Ngài đã tìm ra được công thức để giúp con người thoát khỏi sanh tử – luân hồi để trở về với quê hương xưa của mình là Phật giới. 
Thực hiện lời dạy ghi trong Huyền Ký của Đức Phật, Thiền Gia – Soạn giả Nguyễn Nhân đã chỉ rõ 10 phần mà người tu theo Đạo Phật cần biết và 10 phần cần thông suốt đó là:
 
A/ 10 phần biết:
1. Biết Giác ngộ là gì?
2. Biết mỗi con người đều có 2 Thứ Tánh 
Tánh Phật: thanh tịnh, không dính mắc và có 6 thứ: Ý làm chủ, Thấy-Nghe - Nói - Biết và Điện từ quang.
Tánh Người: là ngã chấp nên dính mắc trong vật lý và dính mắc chuyện thế gian và có 16 thứ: thọ, tưởng, hành, thức, tài, sắc, danh, thực, thùy, tham, sân, si, mạn, nghi, ác, kiến và 8 muôn 4.000 cái bong bóng ảo giác.
Hiểu rõ Tánh Phật và Tánh Người để biết lúc nào thì sử dụng Tánh Phật, lúc nào thì sử dụng Tánh Người cho phù hợp, có chừng mực, vừa đủ.
3. Biết cấu tạo tổng thể của một con người
Thân người mình là gì, tánh người mình là sao; 
Sự hình thành và mất đi của con người, động vật và vạn vật.
Biết rõ định hình của một Kim Thân Phật.
4. Biết cấu tạo trái đất và qui luật vận hành của vật lý Âm- Dương nơi trái đất này.
5. Biết cấu tạo Càn khôn Vũ trụ 
6. Biết cấu tạo Phật Giới. 
7. Biết cấu trúc Tam giới.
8. Biết sự sinh ra qui luật nhân quả - luân hồi đối với con người, vạn vật sống trên trái đất này và biết đường đi của luân hồi, biết được đường giải thoát, biết rõ nghiệp làm Hoa báo.
9. Biết thế nào là Công đức, Phước đức dương, Phước đức âm và Ác đức.
10. Biết Giải thoát để đi về đâu và công thức trở về Phật Giới.
 
B/ 10 phần thông suốt: 
1/ Phải hiểu tường tận “Phật” là gì?
2/ Hiểu thông về công dụng ngũ nhãn của một vị Phật.
3/ Hiểu rõ 6 loài sống chung trên trái đất này và nhiệm vụ của từng loài ấy.
4/ Hiểu rõ 6 pháp môn tu mà Đức Phật đã dạy nơi thế gian này: mục đích tu, công thức tu, sự thành tựu của từng pháp môn tu.
5/ Phải hiểu và thực hiện được 7 phần căn bản của Pháp môn “Như Lai Thanh Tịnh Thiền” mà Đức Phật đã dạy:
  Một: Hàng ngày làm việc gì cứ làm việc nấy cho chu đáo.
  Hai: Có gia đình phải lo cho gia đình.
  Ba: Có Tổ Quốc phải lo cho Tổ Quốc.
  Bốn: Không tin và làm những chuyện nhảm nhí để người đời chê cười.
  Năm: Đời này phải nhất quyết giải thoát.
  Sáu: Phải tìm đủ mọi phương cách tạo công đức.
  Bảy: Phải học cho thuộc lòng công thức trở về Phật Giới.
6/ Phải hiểu thông thế nào là Kiến Tánh?
7/ Phải hiểu rõ về 10 pháp giới và hiểu tu sao mới được giải thoát; Tu sao còn bị luân hồi; Tu sao bị đi làm hoa báo?
8/ Phải biết làm gì được công đức? Công đức để làm gì?
  Làm gì được phước đức Dương? Phước Đức Dương để đi về đâu?
  Hiểu thế nào là Phước Đức Âm? Phước Đức Âm bị luân hồi vào loài nào?
  Làm gì bị ác đức? Ác đức bị đọa vào đâu?
9/ Phải hiểu rõ ở trái đất này cúng cho ai ăn? Cúng thế nào và cúng ở đâu mới đúng?.
10/ Hiểu rõ quy luật luân hồi của một chúng sanh trong tam giới này và nắm chắc công thức để thoát ra khỏi sinh tử - luân hồi, trở về với quê xưa của mình là Phật giới.
 
Đồng thời Thiền gia – Soạn giả Nguyễn Nhân cũng nêu rõ: Người tu theo đạo phật mà chân chính rồi thì sẽ không làm những điều sau: 
1. Không dụng công tu, không tìm kiếm bên ngoài.
2. Không tưởng ra những điều linh thiêng, huyền bí hay phép lạ nhiệm màu; Không mê tín dị đoan, không quán, tưởng, cầu xin, lễ lạy bất cứ ai; Không bị ai lừa. 
3. Không trụ vào vật chất hay danh lợi...
4. Không dính mắc vào tất cả các sự tướng và không dính mắc với những gì có trong vật lý, luôn sống tự tại và biết vừa đủ; Không tự nguyện làm nô lệ cho người khác.
5. Không kiến chấp, ngã chấp và phiền não bất cứ điều gì với bất kỳ ai từ trong gia đình đến ngoài xã hội (nếu như không muốn mình bị đọa 18 tầng địa ngục hay bị nhân quả đi vào hầm 10 tỷ năm).
6. Không nói ra điều gì mơ hồ, không thực tế; Không dại khờ chê bai pháp môn Thiền tông; Không làm những việc tạo ra nhân quả xấu.
7. Không xen vào những chuyện của người khác, không tranh luận thị phi, không tập trung đông người làm những việc không chính đáng, để quốc gia mình được an ổn.
8. Không vội tin lời nói của người khác, khi bản thân mình chưa kiểm chứng hoặc chưa được thực tế hay khoa học chứng minh.
9. Không mất thời giờ làm việc của mình. Không tốn tiền bạc và công sức vào những việc không đem lại lợi ích cho Phật pháp, cho cộng đồng-xã hội và cho con đường giải thoát của chính mình.
10. Mục đích cuối cùng của người tu theo Đạo Phật chân chính để được Giác ngộ - Giải thoát là “ bất biến”.
 
Kính thưa các Quý vị: 
Những điều cốt lõi này của Đạo Phật được Đức Phật dạy ở pháp môn thứ sáu là Như Lai Thanh Tịnh Thiền sau đổi tên là pháp môn Thiền tông. Đây là pháp môn Đức Phật dạy sau cùng. Nhưng trên thế giới hiện nay Phật giáo nói riêng và loài người nói chung không biết bởi vì:
 Thứ nhất: Pháp môn này Đức Phật dùng tánh Phật để dạy vào thời gian bốn năm sau cùng trước khi Đức Phật nhập Niết bàn.
 Thứ hai: Riêng tập Huyền Ký, Đức Phật dạy vào một năm sau cùng trước khi Đức Phật nhập Niết Bàn và chỉ dạy riêng cho 15 đệ tử của Ngài là những vị đã giác ngộ “ yếu chỉ thanh tịnh thiền”. 
Sau cùng Đức Phật trao tập Huyền Ký này cho ông Ma Ha Ca Diếp là vị tổ Thiền tông đời thứ nhất, nhờ vị tổ này truyền riêng theo dòng Thiền tông gọi là “giáo ngoại biệt truyền”. Vì vậy, các kinh điển phổ thông chúng ta không thấy tập Huyền Ký này là vậy. 
 Thứ ba: Huyền Ký Đức Phật dạy: pháp môn Thiền tông học này phải đợi đến đời Mạt Thượng Pháp, khi loài người văn minh lên cao, tức hiểu biết về khoa học rõ ràng thì mới được phổ biến ra. Tuân thủ theo lời dạy của Như Lai, nên mặc dù Thiền Gia Soạn giả Nguyễn Nhân đã nhận được tập Huyền Ký của Đức Phật từ cách đây 60 năm nhưng đến nay mới công bố là vậy. 
 Thứ tư: Lựa người để dạy (tức chỉ có người nào muốn giác ngộ - giải thoát mới dạy).
Chính vì vậy mà Phật giáo trong nước và thế giới cũng như loài người không biết đến là đúng.
 
Kính thưa các Quý vị!
- Tuy nhiên trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Đức Phật đã dạy bằng một loạt ẩn ý: Khai - Thị - Ngộ - Nhập - Phật - Tri - Kiến. Đức Phật chỉ hết con đường từ một người phàm phu để trở thành một Vị Phật. Chỉ vì chúng ta cứ lăng xăng đi tìm kiếm cái bên ngoài và dính mắc vào cái tưởng, cái tham danh - lợi v.v... nên không thể thấy được cái chân thật vốn có của mình, không biết cái gì là tâm, là thân của mình; Không biết được tại sao lại có sự sai biệt giữa những con người với nhau? Tại sao loài người cứ bị vướng vào cái vòng luân hồi luẩn quẩn mãi không thoát ra được? Không biết được sự thật của thế giới quan, vũ trụ này là gì và sự tác động của nó đối với con người và vạn vật ra sao, v.v... nên chúng ta cứ mãi làm những việc không đem đến mục đích cuối cùng của người tu theo Đạo Phật đó là tu để Giác Ngộ - Giải Thoát. 
Pháp môn này được bí mật truyền theo mạch nguồn Thiền tông do 36 Tổ Sư Thiền tông nối tiếp nhau truyền đi nên gọi là “Giáo ngoại biệt truyền”.
 
Kính thưa các Quý vị!
Pháp môn Thiền tông của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca dạy được Thiền Gia Soạn giả, soạn giả Nguyễn Nhân, trưởng ban quản trị chùa Thiền tông Tân Diệu công bố, được ghi trong Huyền Ký của Đức Phật do 36 Vị Tổ Sư Thiền tông bí mật truyền theo dòng chảy của mạch nguồn Thiền tông có một số cơ sở pháp lý và thực tế như sau:
 
Thứ nhất: Về cơ sở pháp lý: 
- Hòa Thượng Thích Thanh Từ, trụ trì Trúc Lâm Thiền viện Đà Lạt, tỉnh Lâm đồng của Việt Nam có viết thành “Sử 33 Vị Tổ Sư Thiền tông Ấn – Hoa” và được nhà xuất bản Hồng Đức quyết định xuất bản. 
- Thiền gia soạn giả Nguyễn Nhân, căn cứ Huyền Ký của Đức Phật đã viết thành cuốn sách Cuộc Đời Và Ngộ Đạo của 36 Vị Tổ Sư Thiền tông Ấn Độ - Trung Hoa - Việt Nam. Sách này đã được nhà xuất bản Tôn Giáo Hà Nội quyết định xuất bản . 
Quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông được 2 nhà xuất bản:
1.Nhà xuất bản Tôn giáo thuộc văn phòng Chính Phủ. 
2. Nhà xuất bản Hồng Đức thuộc Hội luật gia Việt Nam quyết định xuất bản. 
- Nội dung Huyền Ký của Đức Phật đã được 3 cấp chính quyền và các cấp của GHPGVN tỉnh Long An của nước Việt Nam cho phép công bố vào ngày 14/05/2017. 
Đó là những căn cứ pháp lý cơ bản, vừa qua đã được các cơ quan thông tin đại chúng như VTV1, VTV2, VTV4 và nhiều báo chí khác đưa tin về vấn đề này.
 
(VIDEO CLIP 2) - VTV và báo chí đưa tin
 
Thứ hai: Về thực tế người thật, việc thật có chứng cứ cụ thể đó là: Đức vua Trần Nhân Tông là một vị vua tu pháp môn Thiền tông của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca. Ngài để lại bài kệ nói về dòng chảy mạch nguồn Thiền tông và các vị tổ dẫn mạch nguồn Thiền được lưu truyền cho đến ngày nay. Đức vua Trần Nhân Tông là Vị Sơ Tổ Thiền tông đầu tiên của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử. Ngài đã giác ngộ yếu chỉ Thiền tông rồi Bí mật Thiền tông, cuối cùng, được rơi vào bể tánh thanh tịnh. Việc này được Ngài nói trong bài kệ ngộ Thiền của Ngài. Ngài được tôn là Phật Hoàng Trần Nhân Tông; trong sử sách của Việt Nam và của Phật giáo đã lưu truyền từ trên 700 năm nay là hoàn toàn có thật. 
Nhiều gia đình người dân Việt Nam hiện nay còn lập bàn Thờ Ngài. Đặc biệt Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học UNSECO Việt Nam, từ hơn 10 năm nay đã xây đền thờ Phật Hoàng Trần Nhân Tông tại địa chỉ 218 Quốc lộ 1K, Phường Linh Xuân, Quận Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh. Trung tâm này còn thỉnh cây Vô Ưu từ nơi Đức Phật Đản Sanh và Cây Sa La nơi Đức Phật Nhập Niết bàn đem về trồng trong khuôn viên của đền thờ. Hàng năm vào ngày 1/11 AL, nhân dân các nơi tựu hội về đây dâng hương tưởng niệm Ngài. Nơi này cũng là địa điểm sinh hoạt của CLB Trần Nhân Tông được diễn ra hàng tháng cho nhân dân trong vùng. CLB này đã được Hiệp hội CLB UNSECO Việt Nam cấp nhiều Bằng khen.
Sau Vị Sơ Tổ Thiền tông Điều Ngự Giác Hoàng tức Phật Hoàng Trần Nhân Tông thì nước Việt Nam còn có Tổ sư Thiền tông Ngài Pháp Loa và Ngài Huyền Quang. Ba Vị này tu theo pháp môn Thiền tông và được danh hiệu là “Tam Tổ Thiền Tông Trúc Lâm Yên Tử”.
Hầu hết các chùa cổ của miền Bắc Việt Nam và các Thiền viện, tịnh xá trong cả nước Việt Nam đều thờ tượng Đức Phật Bổn Sư Thích Ca tay cầm bông sen và tượng tổ Bồ Đề Đạt Ma, tượng Tổ sư Thiền của Việt Nam.
 
Thứ ba:
Xã hội ngày nay, đã ở vào thời kỳ khoa học văn minh nên chăng mỗi người cũng cần có cái nhìn thực tế, khách quan và khoa học hơn. Mỗi môn đồ của Đức Phật và những người con Phật xin hãy lắng lòng suy nghĩ một chút: 
- Chẳng lẽ Thái tử Tất Đạt Đa từ bỏ ngôi Vị Thái tử đi tu, đầu trần, chân đất, chịu bao cực khổ chỉ để đến bây giờ nhận được thức ăn của các môn đồ dâng cúng hay sao?
- Chẳng lẽ Đức vua Trần Nhân Tông một Vị vua anh minh, mới ở độ tuổi 37 đầy sáng suốt và có tài, hai lần đánh tan giặc Nguyên Mông lừng danh như thế và đang ngự trị trên ngai vàng đầy uy quyền cùng cuộc sống nơi hoàng cung cao sang, quyền Quý, có kẻ hầu, người hạ không sướng hay sao? Nhưng lại từ bỏ ngôi vua trao cho Thái tử rồi leo lên núi cao Trúc Lâm Yên Tử, bốn mùa mây mù che phủ, giá rét thấu xương, sống cuộc đời đạm bạc để được cái gì? Nếu không phải là Đức Vua Trần Nhân Tông đã thấy được cái gì đó đặc biệt lắm, Quý giá lắm hơn cả cái ngôi vua của Ngài thì Ngài mới bỏ được ngôi vua chứ? Mà sự thật đúng là như vậy. Chính bởi đức vua Trần Nhân Tông đã ngộ Thiền và nhận ra được Phật tánh của chính mình.
- Đức Phật dạy “có làm chúa cõi trời hay làm vua cõi người, thì đối với người ngộ Thiền, coi những cái gì mà trời và con người có, chỉ là cái có của một kẻ bần cùng, nghèo khó mà thôi”. Vì theo quy luật luân hồi, một con người cũng chỉ sống được mấy mươi năm rồi chết, lại đi trong luân hồi sinh tử”. Pháp môn Thiền tông đã giải mã được điều này đó là dạy cho con người biết con đường giải thoát. 
 
Thứ tư: Nội dung ghi trong Huyền Ký của Đức Phật, hiện nay đã được thực tế khoa học chứng minh từ con người đến vạn vật; từ những cái lớn nhất như càn khôn vũ trụ, trái đất, hành tinh…đến cái nhỏ nhất như nguyên tử, phân tử, vi trùng…v.v
Những chứng minh của khoa học đã khẳng định lời dạy của Đức Phật ghi trong tập Huyền Ký là đúng với thực tế cuộc sống và đúng với khoa học.
 
Kính thưa các Quý vị!
Từ những vấn đề trên tôi có:
 
MƯỜI ĐIỀU VUI MỪNG
 
1- Tôi vui mừng vì mình được là một người con dân của nước Việt Nam. Một đất nước duy nhất ở trên trái đất này có Triều đại 18 đời Vua Hùng tồn tại suốt chiều dài lịch sử 2.624 năm và Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có đủ sáu pháp môn tu của Đức Phật Thích Ca dạy nơi thế giới Ta Bà này.
 
2- Tôi vui mừng vì đã may mắn gặp được giáo pháp Thiền tông của Như Lai còn lưu lại nơi thế giới này và biết được những điều cốt lõi, tinh hoa của Đạo Phật.
 
3- Tôi vui mừng vì đất nước tôi có Đức Vua Trần Nhân Tông, tu theo pháp môn Thiền tông đã ngộ Đạo thành Phật; Được nhân dân nước Rồng suy tôn là “Phật Hoàng Trần Nhân Tông” tức “vua Phật” mà trên thế giới này không có quốc gia nào có.
 
4- Tôi mừng bởi từ nay, tôi không bị người khác lừa, vì  tôi đã biết đường đi của luân hồi; biết được công thức giải thoát để về Phật giới; biết được nghiệp hoa báo là gì và đã biết định hình của một Kim thân Phật.
 
5- Tôi mừng vì nước Rồng của chúng tôi có “Long Nữ” Thiền Sư Ni Đức Thảo, nhận được mạch nguồn Thiền tông và khai lập ra ngôi chùa Thiền tông đầu tiên của Việt Nam dạy pháp môn tu Thiền tông.
 
6- Tôi mừng lắm vì nước Rồng rất gan dạ của chúng tôi đã được Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni chọn để công bố Huyền Ký của Đức Phật được 36 Vị Tổ Sư Thiền tông bí mật truyền theo mạch nguồn Thiền tông.
 
7- Tôi mừng lắm vì từ chính ngôi chùa Thiền tông Tân Diệu này mạch nguồn Thiền tông được bùng lên và lưu truyền đi khắp năm châu.
 
8- Tôi vui mừng lắm bởi đã có phước duyên gặp được Minh Sư Thiền gia, Soạn giả Nguyễn Nhân - một con người đặc biệt có kiến thức cao sâu, uyên bác; Có tâm lớn giúp nhiều người Giác Ngộ Đạo Thiền với con số phá kỷ lục cao nhất ( gần 10.000 người), kể từ khi Đức Thế Tôn dạy Pháp môn “Như Lai Thanh Tịnh Thiền”. Một người đã dành cả cuộc đời mình từ cái thuở còn là một thanh niên ở tuổi 20 đầy vô tư và hồn nhiên, trong sáng ấy, đến nay đã ở vào cái tuổi ngoài 80 nhưng vẫn từng ngày chạy đua với thời gian; đang vắt kiệt chút sức lực còn lại của đời mình chỉ với  mục đích:
- Một là cảm ơn Đức Thế Tôn đã dạy cho loài người pháp môn Thiền tông học này và cảm ơn Đông y sĩ Huỳnh Thạch cùng mẫu thân; đồng thời cũng là người Thầy đã trao cho tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông.
- Hai là giúp cho người tu theo Đạo Phật hiểu được 4 chữ: “ Giác ngộ” và “Giải thoát” mà thực hành để không đi sai đường.
Thiền gia - Soạn giả Nguyễn Nhân đã hoàn thành trọng trách lớn do Vị Sơ Tổ Thiền tông đời Mạt Pháp là Thiền Sư Ni Đức Thảo giao phổ biến pháp môn Thiền tông.
 
9- Tôi rất mừng vì từ ngày 14/5/2017, sau khi Huyền Ký của Đức Phật được công bố ra đã được người dân nước Rồng sinh sống ở khắp Năm Châu truyền đi khắp thế giới. Đến nay khắp mọi vùng, miền trong cả nước Việt Nam và trên khắp các châu lục trên toàn thế giới đều có người tu theo pháp môn Thiền tông; trong đó có nhiều người trí thức, người làm công tác khoa học, có nhiều vị là tu sĩ, chức sắc trong Đạo Thiên Chúa và Đạo Cao Đài đã được truyền Bí mật Thiền tông, có vị trực tiếp tham gia hoặc thường xuyên có thơ kệ gởi về Diễn đàn Đạo Phật Thiền tông của Chùa Thiền tông Tân Diệu  (trong đó có nhiều vị ở nước ngoài).
 
10- Tôi rất vui mừng và xin được chia sẻ với Thiền gia, Soạn giả Nguyễn Nhân, đó là Chùa Thiền tông Tân Diệu đã có một Ban quản trị trí tuệ, toàn tâm, toàn lực cùng nhau chung lo các Phật sự của Chùa. Nhiều gia đình có từ 2 đến 3 thế hệ và nhiều anh chị em, ngày đêm âm thầm làm việc chỉ với mục đích duy nhất là giúp mọi phương cách cho những ai muốn giác ngộ - giải thoát thì học và hành để về được “ Phật giới”, tức thành Phật.
 
PHẦN THỨ TƯ:
 
ĐỂ TINH HOA TRÍ TUỆ CỦA ĐẠO PHẬT 
MÃI TỎA SÁNG VÀ TRƯỜNG TỒN 
TRÊN THẾ GIAN NÀY.
 
Kính thưa các Quý vị!
- Trong thời gian qua, tôi có dịp đi và tiếp cận với nhiều nguồn thông tin cũng như nghiên cứu các tư liệu nói về Phật giáo của nhiều tổ chức Phật giáo và ngoài Phật giáo ở trong nước cũng như trên thế giới. 
Gần đây nhất, 1 số bài phát biểu của các vị Chức sắc Tôn giáo đại diện cho tổ chức Phật giáo thế giới tại Đại lễ VESAK LHQ 2019 tổ chức tại Chùa Tam Chúc, tỉnh Hà Nam của Việt Nam, trong tháng 5/2019 vừa qua đã:
- Thừa nhận giá trị minh triết mang tính khoa học - thực tiễn của Đức Phật cũng như các giá trị và đóng góp của Đạo Phật đối với thế giới loài người.
- Lịch sử nhân loại ghi nhận vai trò của Đức Phật đã chỉ cho loài người con đường tỉnh thức và dẫn dắt thế giới cho đến ngày nay.
- Đánh giá được thực chất tình hình Thế giới hiện nay, con người đang đối diện với hàng loạt các khủng hoảng về biến đổi khí hậu, cuộc chiến thương mại giữa các cường Quốc lớn, sự đe dọa của Chủ nghĩa khủng bố, sự chạy đua vũ trang, bạo lực sắc tộc ngày càng lan rộng, dẫn đến các vấn nạn và khủng hoảng phức tạp.
Đại lễ VESAK LHQ 2019 đã đưa ra tuyên bố:
Thừa nhận sự vĩ đại của Phật giáo trong thời hiện đại là tạo nên các giá trị văn hóa, tri thức giữa các quốc gia, các tổ chức Phật giáo, các giá trị về tình thương, hòa bình, bất bạo động và độ lượng của Đức Phật trên toàn thế giới.
Đại lễ VESAK LHQ 2019 vừa qua đã nêu lên được nhiều mặt nổi bật của Phật giáo trong thời kỳ hiện đại.
Tuy nhiên tôi vẫn thấy rất đáng tiếc là  Đại lễ VESAK LHQ 2019 có tới 110 quốc gia tham dự nhưng những điều cốt lõi và tinh hoa của Đạo Phật mà Đức Thế Tôn đã dạy cho con người nơi thế giới Ta Bà này đó là tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông đã được Chùa Thiền tông Tân Diệu, Tỉnh Long An của nước Việt Nam, công bố trên trang mạng từ ngày 14 tháng 5 năm 2017, vẫn chưa được chuyển tải đến diễn đàn Đạo Phật quốc tế này, nhất là Những nội dung của Huyền Ký Đức Phật ngày nay đã được thực tế khoa học chứng minh rất rõ ràng và cụ thể như:
- Từ cuối năm 1999, trung tâm NASA của Hoa Kỳ đã cung cấp cho toàn nhân loại một cái nhìn toàn cảnh độc đáo về vũ trụ (mà trên 2500 năm về trước, Đức Phật đã nói về Càn khôn vũ trụ, mênh mông, bao la, không biên giới, không thể dùng từ ngữ nào của thế giới này mà nói hết được).
- Chứng minh có Hệ mặt trời ( mà Đức Phật gọi là một Tam giới).
- Chứng minh có Trái đất quay xung quanh mặt trời và cấu tạo của Trái đất.
- Chứng minh được qui luật vận chuyển của Trái đất (mà Đức Phật nói là Qui luật luân hồi của Trái đất).
- Cách đây 50 năm, tàu con thoi APOLLO 11 đã thành công trong việc đưa phi hành gia đổ bộ lên mặt trăng, vệ tinh tự nhiên của Trái đất (mà Đức Phật gọi là hành tinh vật tư trong 1 Tam giới).
- Gần đây nhất, trung tâm NASA đã phát hiện 7 hành tinh bên ngoài hệ mặt trời, phát hiện một hệ sao chỉ cách chúng ta 39 năm ánh sáng với 7 hành tinh nhiều khả năng có sự sống (điều mà Đức Phật nói trong một Tam giới có 45 hành tinh có sự sống).
- Trung tâm NASA đã phát hiện có dải ngân hà và có rất nhiều hành tinh… 
- Phát hiện ra Lỗ đen vũ trụ nằm giữa trung tâm của dãi ngân hà.
- Đã phát hiện có Trái đất thứ 2 cấu tạo gần giống Trái đất chúng ta đang sống (điều mà Đức Phật nói có 6 Trái đất được cấu tạo bằng tứ đại.
- Chứng minh có 6 loài sống chung trên Trái đất: Loài người, loài súc sanh và loài thực vật thì chúng ta đều đã thấy. Riêng loài Thần, loài Ngạ quỷ và loài địa ngục thì quý thầy nếu chứng được huệ nhãn hay nhà ngoại cảm có thể thấy được cõi vô hình. 
- Khoa học chứng minh có nguyên tử, phân tử, vi trùng, tế bào gốc con người, chiết xuất được ADN…(Điều mà Đức Phật nói nhỏ như 1 Vi trần).
- Khoa học chứng minh được sự sinh - diệt của con người và vạn vật. 
- Khoa học đã chứng minh tính ác của tánh  người như: Đại chiến Thế giới thứ II, ngày 6/8/1945, Mỹ đã ném 2 quả bom nguyên tử xuống tàn phá 2 thành phố là Hiroshima và Nagasaki của Nhật. Ngày nay trên thế giới có 9 nước gồm: Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Triều Tiên tuyên bố có sở hữu vũ khí hạt nhân. Trong đó có 5 nước là  Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc có bom nhiệt hạch là loại bom có sức công phá mạnh gấp hàng ngàn lần so với bom nguyên tử. Sức nổ của một trái bom nhiệt hạch tương đương với hàng triệu tấn thuốc nổ TNT. Riêng Triều Tiên sản xuất ra bom nhiệt hạch thu nhỏ là loại bom đầu đạn hạt nhân được thay bằng bom nhiệt hạch nên sức công phá của nó không thể tưởng tượng được. Ngay cả các quốc gia có tiềm lực quân sự khủng khiếp cũng đang bị đe dọa bởi loại bom này (điều mà Đức Phật nói con người sử dụng cái Tánh ác của Tánh Người). 
 
Kính thưa các Quý vị!
Những chứng minh nêu trên của khoa học đã khẳng định rõ: lời dạy của Đức Phật từ trên 2.500 năm trước được ghi trong tập Huyền Ký của Đức Phật là đúng sự thật, đúng với thực tế và khoa học.
 
Kính thưa các Quý vị!
Nếu như các Quý vị nghiên cứu kỹ tập Huyền Ký của Đức Phật, các Quý vị sẽ thấy có rất nhiều điều chúng ta chưa hiểu đúng và chưa làm đúng theo lời dạy của Đức Phật như: 
Đưa nhiều hình thức nghi lễ cúng kiếng của các Tín ngưỡng Tôn giáo khác và mê tín, dị đoan vào hoạt động của Chùa. Sự thương mại hóa tâm linh đang len lỏi dưới nhiều hình thức tinh vi vào hoạt động của Phật giáo.vv…
Những việc làm này là không đúng Chánh Pháp; cần được đều chỉnh lại để không làm mất đi tinh hoa trí tuệ và hình ảnh đẹp của Phật giáo.
Ở Việt Nam, thời gian qua GHPGVN đã chỉ đạo, nhắc nhở các cấp Giáo hội về vấn đề này. Đồng thời về phía Nhà Nước cũng đặc biệt quan tâm như nhiều vấn đề về lĩnh vực Tôn giáo - Tín ngưỡng đã được Quốc hội, Chính phủ, các Bộ ngành chức năng chỉ đạo như: Bộ trưởng Bộ Văn Hóa - Thể Thao và Du lịch, Nguyễn Ngọc Thiện, nêu trước Quốc hội như: “Nguyên nhân của mê tín, dị đoan có rất nhiều như tác động của mặt trái cơ chế thị trường lan truyền nhanh chóng những hành vi lệch lạc trong thực hiện Tín ngưỡng, do thói quen chưa thay đổi, do kẻ xấu lợi dụng, do trình độ dân trí. Đây là vấn đề cần loại bỏ khỏi đời sống - xã hội, nhưng không thể giải quyết được trong thời gian ngắn, nên chúng ta phải kiên trì xử lý việc này. Trước hết phải tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thực thi Pháp luật của các Cơ quan quản lý Nhà Nước về Tín ngưỡng”. 
 
(VIDEO CLIP 3): Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Thiện
 
Trả lời chất vấn của Đại Biểu Quốc Hội tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, Ông Lê Vĩnh Tân, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ nêu: “Theo quy định của Pháp luật Việt Nam và Hiến Chương của Giáo Hội PG VN thì không có quy định về kinh doanh Chùa”. Ông khẳng định: “Với chức năng và nhiệm vụ của Cơ Quan quản lý Nhà nước, chưa phát hiện hành vi kinh doanh Chùa để vụ lợi. Tuy nhiên thời gian qua, có một số cá nhân lợi dụng vào niềm tin của nhân dân, của Phật tử để hoạt đông mê tín, dị đoan và trục lợi, gây bức xúc trong cộng đồng Xã hội”. 
Tại Diễn đàn Quốc Hội này, thay mặt Chính Phủ, Phó Thủ Tướng Vũ Đức Đam khẳng định: “Chúng ta trước hết bày tỏ sự đồng tình đối với việc phản đối, lên án, đấu tranh chống mê tín dị đoan, chống lợi dụng tâm linh, Tôn giáo, tín ngưỡng, để trục lợi. Các vi phạm cần được xử lý nghiêm theo qui định của Pháp luật và các Tổ chức Tôn giáo cũng cần xử lý nghiêm. Tuy nhiên vấn đề này không chỉ bằng pháp luật quy định mà còn phải tuyên truyền, phổ biến, vận động, đặc biệt là vai trò của các tổ chức tôn giáo. Những vấn đề tín ngưỡng không phù hợp thì vận động loại bỏ dần. Mê tín dị đoan suy cho cùng là sự thiếu hiểu biết. Cần chú trọng giáo dục, nâng cao dân trí để mọi người dân hiểu rằng hành vi này là đúng với truyền thống tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc, hành vi kia là không đúng, hành vi này trước đây đúng, nhưng bây giờ không phù hợp với thế giới văn minh. Những điều này đều cần sự phân tích có tình, có lý của các nhà nghiên cứu về tôn giáo, những người thực hành tôn giáo và đặc biệt là những người nghiên cứu về văn hóa… cần tăng cường công tác nêu gương, phân tích cặn kẽ trên giác độ văn hóa về những việc tốt, những việc chưa tốt, chưa đúng để mọi người cùng nhân cái tốt lên và giảm cái xấu. Chúng ta hãy cùng gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, của các tôn giáo, nhưng đồng thời hết sức cầu thị trên tinh thần khoa học để có những ứng xử phù hợp với yêu cầu của thời đại mới”.
(VIDEO CLIP 4): Phó Thủ Tướng Vũ Đức Đam
 
Trong thông báo số 14, kỳ họp thứ 7 quốc hội khóa XIV ngày 07 tháng 06 năm 2019, xung quanh vấn đề tín ngưỡng tôn giáo, thay mặt Quốc Hội, chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy giá trị tốt đẹp, truyền thống của các tôn giáo, tín ngưỡng, bảo đảm quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng của công dân theo quy định của hiến pháp và pháp luật; có các giải pháp, biện pháp đồng bộ trong việc phòng chống mê tín dị đoan lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để thu lợi bất chính; chấn chỉnh các hành vi lợi dụng tâm linh để tiến hành các hoạt động không có trong giáo lý, giáo luật; phối hợp với các bộ, ngành liên quan sớm nghiên cứu trình chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật về quản lý hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, quản lý và sử dụng nguồn thu đúng mục đích”. 
(VIDEO CLIP 5): Chủ tịch Quốc Hội phát biểu
 
Kính thưa các Quý vị!
Việc làm của Nhà Nước Việt Nam là xóa bỏ mê tín, dị đoan và các hoạt động Tôn Giáo - Tín Ngưỡng không đúng với Tôn chỉ, mục đích của Phật giáo chính là phát huy bản chất tốt đẹp và tinh hoa trí tuệ trong sáng, rực rỡ của Đạo Phật.
 
Kính thưa các Quý vị!
- Đối với người tu theo Đạo Phật, nếu như không vì mục đích để Giác ngộ - Giải thoát thì việc loại bỏ các hình thức Tín Ngưỡng Tôn Giáo không phù hợp, bỏ mê tín, dị đoan, bỏ sự dính mắc về danh lợi là không dễ chút nào. Nếu không có bản lĩnh kiên cường và có ý chí sắt đá thì khó có thể buông bỏ được tiền tài - danh lợi, v.v.. đang dính chặt lấy mình. Ví như bộ rễ chùm của một cây đại cổ thụ có hàng ngàn năm tuổi đã ăn sâu vào lòng đất. Chính vì vậy Đức Phật mới ví: “Nước mắt chúng sanh khóc đưa tiễn nhau còn nhiều hơn nước bốn biển” là Đức Phật muốn nói đến sự luân hồi của con người trải qua hàng 100 tỷ năm chưa thoát ra được. Mỗi người nếu nhận thức được rằng đời người mong manh như hơi thở, khi mất thân người này rồi rất khó có lại được. 
- Vậy tại sao không ngay từ bây giờ khi chúng ta còn đang sống, không tranh thủ cái phước duyên được làm người này để tìm cách mà thoát ra. 
-  Thực ra có chức sắc lớn, có bằng cấp cao, có chùa to, Phật lớn, được mọi người tôn sùng thì sẽ dính mắc vào cái danh, cái tướng hư vọng, cản trở con đường Giải thoát của người tu.
- Có nhiều tài sản và tiền tài, phương tiện, v.v… thì dính vào cái lợi.
- Có nhiều chúng đệ tử đến lễ lạy thì thấy mình có địa Vị cao, có vai trò lớn, cái ngã chấp - kiến chấp nổi lên, cái Tôi - cái Ta xuất hiện, nhân quả sanh ra, luân hồi liền kéo.
 
Kính thưa các Quý vị!
Từ khi Chùa Thiền tông Tân Diệu phổ biến pháp môn Thiền tông; mỗi khi theo dõi chương trình Truyền Thiền Bí Mật của Chùa Thiền tông Tân Diệu, khi thấy có Vị Xuất Gia được truyền Bí Mật Thiền tông tôi rất vui.
- Tôi chỉ mong sao các Quý Thầy, Quý Sư Cô hãy dũng mãnh vượt qua những kiến chấp để đạt được mục tiêu Giải thoát mà bấy lâu nay Quý Thầy, Quý Sư Cô đã lựa chọn. Dù cho cơ hội chỉ còn 1 ngày được sống trên cõi đời này cũng ráng gieo cho được cái mầm Chánh pháp.
Kính mong các quý thầy, Quý sư cô hãy lắng lòng đi ngược dòng lịch sử của đạo Phật để thấy lại một hình ảnh đẹp vào thời của Đức Phật, có một vị Cư Sĩ Ngài Duy Ma Cật, tinh thông Phật pháp hơn cả các đại đệ tử lớn của Đức Phật. Kinh Duy-Ma-Cật còn lưu hành đến ngày nay là minh chứng cho điều đó. 
Hay đời Tổ Sư Thiền tông thứ 33 là Ngài Lục Tổ Huệ Năng, vốn là một anh chàng bán củi không biết chữ, sống ở nơi biên địa hạ tiện, nhưng chỉ nghe người khác tụng Kinh Kim Cang mà Ngài đã Kiến Tánh.
Ở Trung Quốc, thời vua Võ Tắc Thiên nhà vua Ngộ Bí mật Thiền tông, còn Quốc sư Thần Tú thì không Ngộ được đạo Thiền.
Trong thực tế hiện nay, không ít người cứ quan niệm phải là xuất gia mới Kiến Tánh, mới đắc đạo; phải tu lâu năm; phải có chức sắc lớn hay học vấn cao mới là đạo cao đức trọng. Thực ra cũng không hẳn là như vậy. Sự Kiến Tánh của người tu theo đạo Phật hoàn toàn không lệ thuộc vào tuổi tác, thời gian đi tu lâu hay mau, chức sắc lớn hay nhỏ, học vị cao hay thấp; xuất gia hay tại gia, v.v…mà được hiểu ở chính sự giác ngộ Đạo Phật của con người ấy. Họ Kiến Tánh hay không chỉ riêng họ biết và được thực hành bằng bổn phận trong mỗi việc làm, lời nói để hóa độ chúng sanh của họ.
 
Kính thưa các Quý vị! 
- Cuộc sống xã hội vốn biến động không ngừng. Nhưng với người tu chân chính thì mục đích cuối cùng để được giác ngộ - giải thoát là bất biến.
- Kính mong quý môn đồ của Phật hãy tự tìm cho mình một con đường ra ngay trong cuộc đời này dù cho có quá nhiều ngã rẽ: đường khổ, đường vui, đường giải thoát, chọn đường nào đều chính do quý vị lựa chọn và quyết định.
Mong Quý Vị hãy bỏ đi kiến chấp, đoạn trừ phiền não, thanh lọc thân tâm đem lại lợi ích cho chính mình và giáo hóa chúng sanh. Mỗi lời Quý vị nói, mỗi việc Quý vị làm hãy là thực hiện bổn phận giáo hóa chúng sanh; Xin đừng tùy tiện nói, đừng tùy tiện làm mà gieo khổ muôn kiếp cho mình và cho cả chúng sanh.
 
Kính thưa các Quý vị!
- Theo tôi biết thì đến nay đã có gần 10.000 Phật tử tu theo pháp môn Thiền tông, tôi chỉ mong sao:
- Các Quý vị đã chọn được con đường Chánh pháp rồi thì hãy son sắt một lòng, bền tâm, vững trí đi cho trọn đến đích cuối cùng, đừng để tuột mất cơ hội duy nhất này.
- Trong cuộc sống hàng ngày có biết bao biến động, nhưng chúng ta hãy lấy kim chỉ nam: Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín để sống; Hãy tôn trọng và sống hòa đồng vui vẻ với những người xung quanh. Ai nghĩ gì, nói gì, làm gì là chuyện của họ, là nhân quả của họ, ta đừng can thiệp vào; Hãy tập cho mình đừng kiến chấp dù với bất cứ lý do gì. Mọi chuyện hơn thua, cao thấp ở đời đừng tham gia, ai làm sao chịu nhân quả ấy. Nếu lỡ kiến chấp cái gì thì hãy buông đi. Tội do nhân duyên sinh thì tội cũng do nhân duyên diệt, đừng mặc cảm về quá khứ. Nhân quả của người tu Thiền tông nếu tu đúng thì thoát ra khỏi Tam giới để trở về Phật giới. Tu sai thì phải đọa 18 tầng địa ngục. Còn nếu ai kiến chấp, phỉ báng, khinh chê và triệt phá pháp môn Thiền tông thì phải đọa xuống hầm 10 tỷ năm, khi nào trái đất này bể hoàn toàn mới thoát ra được.
- Chỉ khi nào ta dứt trừ được phiền não và cố chấp thì trí tuệ mới khai mở, từ đó tạo công đức và mới kiến tánh được. Việc này tự mỗi người ý thức và thực hành, không ai giúp được mình kể cả Phật.
- Bản thân mỗi chúng ta vốn có đầy đủ khả năng thành Phật. Vấn đề cốt lõi là phải có niềm tin kiên định ở nơi chính mình. Phải có bản lĩnh và dũng mãnh mới vượt qua sự cám dỗ của 16 thứ tánh người.
- Người tu Thiền tông hãy trí tuệ trong mỗi việc làm hàng ngày; bởi một việc làm nhưng có thể tạo ra công đức, cũng có thể tạo ra phước đức hay ác đức.
- Người tu Thiền tông đang sống ở thế giới loài người thì phải sử dụng tánh người. Quý vị hãy sống tự tại và biết vừa đủ. Trong giao tiếp, ứng xử cũng phải trong khuôn phép chuẩn mực nhất định. Tu Thiền tông là thanh tịnh, không chấp ngã, nên chính bản thân mỗi người tu Thiền tông phải là khuôn mẫu chuẩn mực trong mỗi lời nói và việc làm của mình. Thấy mặt tốt của người, thấy được lỗi của mình, khiêm tốn và chân thành là hành trang quan trọng và cũng là nhân cách cần có của người con Phật. Trên cuộc đời này, chỉ duy nhất Đức Phật là không có lỗi, không có sai. Còn lại chúng ta chỉ ít hay nhiều mà thôi, ai cũng có lúc sai. Hãy xem cái sai của người là bài học thiết thực cho mình.
- Tánh Phật chỉ khi về Phật giới mới sử dụng. Hiện tại sống ở thế giới loài người thì chúng ta cần phải biết rõ tánh Phật: thấy - nghe - nói - biết là thanh tịnh để điều chỉnh tánh Người và sử dụng tánh Người của mình sao cho có chừng mực. 
- Chúng ta sống trong thế giới ngũ thú tạp cư nên cần hiểu rõ nhiệm vụ của 3 loài: thần, cô hồn và loài người. Hiểu rồi thì đừng lạy lục, cầu xin ai cả.
- Người tu Thiền tông luôn nhớ 7 nơi không nên đến mà chùa Thiền tông Tân Diệu đã chỉ rõ. 
- Người tu Thiền tông cần phải biết rõ mục đích tu của mình là gì? đích đến của mình là đâu và làm thế nào để đến được đích ấy.
- Đừng dụng công tu, đừng tìm kiếm bên ngoài.
- Học nắm cho chắc về càn khôn vũ trụ, Tam giới, Phật giới, quy luật nhân quả luân hồi, cấu trúc hình thành và mất đi của con người, động vật và vạn vật; hiểu rõ bản chất và nhiệm vụ của mỗi loài sống trên trái đất.
- Công thức Giải thoát học cho thuộc, hiểu cho thông, làm cho đúng.
- Bằng nhiều phương tiện giúp người khác hiểu rõ về Giác ngộ - Giải thoát để tạo được công đức. Khi tạo công đức phải trong sáng, tự nhiên, không tham, không cố chấp, không hơn thua, đố kỵ, bỏn sẻn, không quá ham, không quá nhiệt tình. Người tu Thiền tông luôn kiểm soát và điều chỉnh mọi hành vi của mình để tu đúng Chánh pháp. 
- Nước Việt Nam có duy nhất một Chùa Thiền tông Tân Diệu dạy giác ngộ - giải thoát.  Nhưng gần 10.000 người tu theo Thiền tông hãy thật sự là người đưa được những điều cốt lõi và tinh hoa của Đạo Phật Thiền tông đến với những ai muốn tu Giác ngộ - Giải thoát. 
- Do vậy, mỗi nơi Phật tử Thiền tông ở và mỗi chỗ Phật tử Thiền tông đến phải thực sự là thực hiện bổn phận đưa mạch nguồn Thiền tông tỏa đi.
- Đối với người tu Thiền tông đã lớn tuổi: Quý vị hãy thường xuyên nghe lời dặn dò đường về Phật Giới và ráng tạo cho được nhiều công đức. 
 
Kính thưa các Quý vị! 
Thông qua diễn đàn đạo Phật Thiền tông này, với tâm nguyện chân thành và thiết tha nhất của một con người sống trên hành tinh này, tôi xin trân trọng kính gửi đến các quý vị chức sắc tôn giáo đại diện cho tổ chức Phật giáo thế giới, tổ chức ECOSOC, tổ chức UNESCO của Liên Hiệp Quốc, đến quốc hội, Chính phủ, Giáo Hội Phật giáo Việt Nam, các quý tăng Vương, Tăng thống, các vị pháp chủ, lãnh đạo các tổ chức Giáo hội trong nước và quốc tế  1 số thông điệp sau đây:
1. Để tuyên bố Hà Nam 2019 Đại Lễ Vesak LHQ, tổ chức tại chùa Tam Chúc tỉnh Hà Nam của nước Việt Nam trở thành hiện thực. “… Để giáo pháp của Đức Phật là ngọn hải đăng cho thế giới chuyển hóa vô minh và khổ đau trong tâm chúng ta, mang lại sự phát triển vào năng lực bền vững cho nhân loại và quan trọng hơn cho hòa hợp và hòa bình thế giới”  như lời phát biểu của HT – GS – TS Brah- ma-pun-dit chủ tịch ủy ban tổ chức quốc tế đại lễ Vesak LHQ, Chủ Tịch Hiệp hội các trường đại học Phật giáo thế giới đã phát biểu tại lễ bế mạc đại lễ Vesak LHQ 2019, cùng những mong muốn tốt đẹp của 118 quốc gia có Phật giáo trên thế giới, của Quốc Hội, Chính phủ và GHPGVN thì hơn bao giờ hết, Tôi trân trọng kính đề nghị Tổ chức ECOSOC, Tổ Chức UNESCO của LHQ,  quý vị  Nguyên Thủ các quốc gia, dân tộc, tôn giáo nói chung và của Phật giáo nói riêng hãy bằng trách nhiệm và sự nỗ lực của cá nhân, xin làm hết sức mình để những điều cốt lõi và tinh hoa của đạo Phật được ghi trong Huyền Ký của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni truyền theo dòng Thiền tông mà hiện nay chùa Thiền tông Tân Diệu tỉnh Long An của nước Việt Nam đã và đang phổ biến trên trang mạng www.thientong.com, được tỏa sáng trên khắp thế gian này, để loài người rõ thông được những lời dạy chân thật của Đức Phật mà thực hành, đem lại những lợi ích tốt đẹp cho loài người và cho hành tinh của chúng ta.
2. Hiện nay Chùa Thiền tông Tân Diệu,  Tỉnh Long An của nước Việt Nam đang lưu giữ một báu vật vô giá đó là quyển Giáo Lý của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni truyền theo dòng Thiền tông. Theo thiền gia, Soạn giả Nguyễn Nhân, Trưởng Ban quản trị Chùa Thiền tông Tân Diệu thì “thẩm quyền công bố quyển giáo lý này phải là nhà nước, giáo hội Phật giáo Việt Nam cấp trung ương hay tổ chức quốc tế của LHQ. Bởi nội dung của quyển giáo lý có tầm chi phối đến cả thế giới”. Không biết có tổ chức hay nguyên thủ Quốc gia nào có được đại phước duyên làm việc này không? Bởi theo lời Đức Phật ghi trong Huyền Ký thì đã có tám đời Đức Phật nhưng chưa công bố ra được quyển giáo lý này. Nếu giáo lý của Đức Phật được công bố sẽ đem lại những lợi ích rất lớn cho cả loài người trước hết là xóa được mê tín dị đoan và người tu theo Đạo Phật không đi sai đường. Tôi ước mong sao việc công bố giáo lý của Đức Phật sẽ trở thành hiện thực để đem lại những điều tốt đẹp nhất cho thế gian này.
(VIDEO CLIP 6): Công bố Giáo Lý
 
3. Thế giới ngày nay đang ở vào thời đại nguyên tử và điện tử. Khoa học hiện đại đã chứng minh được rất nhiều điều tưởng như không thể thành có thể và sự thật đã trở thành hiện thực về những điều mà Đức Phật dạy từ cách đây trên 2.500 năm. Vì vậy mỗi người hãy bằng trí tuệ của chính mình, bằng thực tế cuộc sống và những điều đã được khoa học chứng minh để phân biệt cái đúng, cái sai, cái nên tin, cái không nên tin, cái nên làm và cái không nên làm. 
4. Cuộc đời một con người rất ngắn ngủi. Vì vậy kính mong mỗi Quý vị hãy trân trọng mỗi ngày, giờ sống của mình để không uổng phí một kiếp người. Hãy tự chọn cho mình một con đường chân chánh, một mục đích sống tốt đẹp. Hãy tự thiết lập các hành vi chân chánh cho mình: chân chánh về nhận thức, tư duy, lời nói, việc làm, cách sống, sinh nhai và trí tuệ trong mỗi quyết định để đem lại lợi ích thiết thực cho bản thân, giai đình và số đông người trong cộng đồng, tạo được sức lan tỏa tích cực trong xã hội. 
5. Đừng ai làm điều xấu ác từ suy nghĩ đến hành động. Đức Phật đã dạy: “Điều cần thiết nhất mà chúng ta phải có đó là tình thương…Hãy sống với Chánh pháp và đi mãi trên con đường lành…”. Tôi mong rằng mỗi chúng ta ai cũng có trái tim đầy yêu thương và nhân hậu. Mọi người hãy chung sức, bảo vệ môi trường sống của chúng ta và tôn trọng, bảo vệ cuộc sống của muôn loài. Chúng ta hãy cùng nhau góp phần xây dựng thế giới này thật sự là một thế giới hòa bình thịnh vượng và an lạc. 
 
Kính thưa các Quý vị !
Khi tôi nói được với các Quý vị và độc giả gần xa những điều suy nghĩ trên thì tôi thấy lòng mình đã thanh thản hơn. Bởi nay tôi đã ở cái tuổi gần 70 rồi, lực bất tòng tâm. Tôi không thể làm được những việc lớn lao mà nhiều quý vị và các bạn trẻ hiện nay đang làm hoặc sắp tới đã làm. Nên đành chấp nhận tu theo hoàn cảnh của một người già vậy. Gắng làm được cái gì đó đem lại lợi ích cho Phật pháp thì tôi cũng ráng làm.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn Thiền gia, Soạn giả Nguyễn Nhân cùng Ban quản trị và nhóm diễn đàn Đạo Phật Thiền tông của Chùa Thiền tông Tân Diệu đã tạo điều kiện để tôi được tham gia diễn đàn này.
- Sau đây tôi xin kính tặng các Quý Vị bài thơ của tôi. Đây là những cảm nghĩ và tình cảm chân thành tôi muốn gởi gắm đến các Quý vị và bạn đọc gần xa:
 
Nơi đây Long Nữ Đất Rồng
Nhận được nguồn Thiền của Phật Thích Ca
Xây chùa Tân Diệu phổ ra
Pháp Thiền Thanh Tịnh Thích Ca lưu truyền.
 
Cho người hữu phước đại duyên
Biết được con đường Chánh pháp Như Lai
Không đi tìm kiếm bên ngoài
Trở về với chính tâm mình Chân Như.
 
Trong mình có Phật hãy thờ
Đừng có dại khờ kiếm Phật ngoài ta
Bây giờ con đã ngộ ra
Chỉ tâm thanh tịnh nhận ra Phật mình.
 
Thấy nghe nói biết tịnh thanh
Buông dừng, thôi, dứt an nhàn, thảnh thơi
Thế gian chấp ngã lôi thôi
Đừng dính mắc nó luân hồi lìa xa.
 
Giải thoát là ở nơi ta
Muốn hay không muốn do ta cả mà
Quê hương xưa cũ đâu xa
Hãy hỏi lòng mình có muốn về không.
 
Cuộc đời có được bao năm
Đắn đo suy tính trầm luân kéo mình
Trăm tỷ năm cứ xoay vần
Luân hồi sanh tử biết chừng nào thôi.
 
Đại phước gặp Thiền tông rồi
Kiếm sắc Văn Thù chặt đứt dây dưa
Thiền Thanh Phật dạy năm xưa
Học thông biết rõ quê xưa ta về.
 
Tùy duyên chia sẽ pháp mầu
Đưa mạch nguồn Thiền chảy khắp muôn nơi
Tạo nhiều công đức sáng trưng
Hành trang đầy ắp ung dung về nhà.
 
Phật giới mới chính quê ta
Đưa người thanh tịnh về nhà nghỉ ngơi
Cuộc đời mãi mãi an vui
Luân hồi nhiều kiếp hết rồi từ đây.
 
Cuối cùng tôi xin kính chúc Trưởng Ban cùng các Quý Vị trong Ban Quản trị chùa Thiền tông Tân Diệu, các Vị trong Diễn đàn đạo Phật Thiền tông, các Quý vị tham gia diễn đàn hôm nay và tất cả các Quý vị độc giả gần xa dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và thành tựu viên mãn. 
 
Tôi xin chân thành cảm ơn các Quý Vị đã lắng nghe phần trình bày của tôi.
 
                   Ngày 15 tháng 09 năm 2019
                           Đỗ Thị Thanh Bình